Nhóm 2:
Lê Thị Thanh Tân
Lê Thị Ngọc Mỹ
Lê Hoàng Phúc
Lê Linh
Trần Tâm Thành
BÀI THUYẾT TRÌNH MÁC - LÊNIN
QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Giá trị thặng dư là gì?
NỘI DUNG
- Sản lượng của hàng hóa làm ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân mà mức chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư.
- Giá trị thặng dư phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động làm thuê, nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
* Giả sử 1 người lao động trong tay giá trị nguyên vật liệu là 1000đ. Trên cơ sở sức lao động bỏ ra, người lao động đó sẽ làm ra được sản phẩm mới có giá trị 1100đ. Số tiền 100đ chênh lệch đó là giá trị thặng dư sức lao động. Tuy nhiên nhà tư bản chỉ trả cho anh ta 50đ/sp, có nghĩa 50đ còn lại là phần tư bản chiếm của người lao động.
Quá trình sản xuất
giá trị thặng dư
VÌ SAO C.MÁC GỌI GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH LÀ HÌNH THỨC BIẾN TƯỚNG CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TƯƠNG ĐỐI ?
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Trong hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào việc mua sắm sức lao động và tư liệu sản xuất. Còn mục đích của nhà tư bản khi chi tiền ra mua sắm các thứ đó chẳng có gì khác hơn là nhằm thu được một số tiền dôi ra ngoài số tiền mà mình đã ứng chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dôi ra đó chính là giá trị thặng dư.
Các tư liệu sản xuất như nhà xưởng, công trình kiến trúc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,… là tư bản bất biến. Nó không thay đổi lượng giá trị trong quá trình sản xuất mà chỉ chuyển hóa giá trị của nó sang các sản phẩm mới được sản xuất ra. Nó không thể là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Còn sức lao động thì trong quá trình tiêu dùng, tức là trong quá trình sử dụng nó vào lao động sản xuất, nó có khả năng tạo ra giá trị mới mà giá trị mới này lại lớn hơn giá trị của bản thân nó. Sức lao động là tư bản khả biến.
Giả sử một người lao động trong một giờ làm ra được giá trị sản phẩm là 1000 đồng. Đến giờ thứ hai trở đi trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra ở giờ thứ nhất, người lao động đó sẽ làm ra được 1100 đồng. Số tiền chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức lao động.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư ?
- Quá trình sản xuất ra GTTD chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới
b) Tư bản khả biến:
- Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản khả biến (kí hiệu là v – Variable).
- Tham gia tạo ra giá trị thặng dư bao gồm 2 yếu tố, trong đó tư bản khả biến dùng để mua sức lao động có vai trò trực tiếp sáng tạo ra giá trị thặng dư. Còn tư bản bất biến đóng vai trò gián tiếp, nó chỉ là điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất, tự bản thân nó không sáng tạo ra giá trị thặng dư.
-Nếu kí hiệu giá trị thặng dư là m thì giá trị mới sẽ là (v + m)
--> Giá trị hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng (c + v + m)
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động trong sản xuất hàng hóa đã giúp C.Mác tìm ra chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. C.Mác là người đầu tiên chia tư bản ra thành tư bản
- Sự phân chia này đã vạch rõ thực chất của bóc lột tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao động của công nhân mới trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư
- Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng hay giá trị đơn thuần mà hơn thế nữa chính là sản xuất giá trị thặng dư. Muốn sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản buộc người công nhân phải sản xuất giá trị sử dụng của hàng hóa nhất định nào đó.
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Tư bản bất biến và tư bản khả biến
II. Bản chất của tư bản và sự phân chia của tư bản
- C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.
Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hoá.
Anh chị hãy trình bày hiểu biết của mình về phương pháp bóc lột giá trị thặng dư hiện nay của các tập đoàn tư bản?
a) Tư bản bất biến:
- Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất bao gồm nhà xưởng, máy móc các thiết bị công cụ sản xuất, nguyên liệu, nhiêu liệu, vật liệu,… Giá trị của nó không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất gọi là tư bản bất biến ( kí hiệu là c - Constant)
- Ví dụ:
+ 2Kg Mía -> 2Kg đường
+ Miếng vải -> cái áo
3) Phương pháp giá trị thặng dư siêu ngạch
1) Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
2) Phương pháp giá
trị thặng dư tương đối
- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê.
=> Như vậy, bản chất của tư bản chính là sự phản ánh quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo
1) Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
3) Phương pháp giá trị thặng dư siêu ngạch
- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng các kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, giá trị sức lao động và năng suất lao động không thay đổi.
Giới hạn về thể chất, tinh thần: giới hạn này đòi hỏi trong 24h của một ngày đêm người công nhân cần phải ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí... phục hồi sức lao động. Với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, ngày lao động có xu hướng ngày càng ngắn hơn trước.
Giới hạn về kinh tế - xã hội: về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Về mặt xã hội, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới ra đời, nhà nước ban bố nhiều đạo luật có lợi cho giai cấp tư sản.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội.
Những doanh nghiệp nào đi đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu được giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá tri thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động mà có nhưng khác ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do tăng năng xuất lao động xã hội, do đó tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn gía trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất lao động cá biệt nên chỉ có những nahf tư bản nào có năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch.
Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
Trong đó:
m': tỉ suất giá trị thặng dư
m; lượng giá trị thặng dư
v : tư bản khả biến
t’: Thời gian lao động thặng dư
t: Thời gian lao động tất yếu
2) Phương pháp giá trị thặng dư tương đối
a) Tỷ suất giá trị thặng dư
- Tỷ suất giá trị thặng dư là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến, tức là tỉ lệ theo đó tư bản khả biến tăng thêm giá trị.
C,Mác dùng chữ m’ để chỉ tỉ suất giá trị thặng dư
m’= (m/v) x 100%
hoặc m’ = (t’/t) x 100%
b) Khối lượng giá trị thặng dư:
- Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỉ suất giá trị thặng dư với tổng tư bản khả biến (V) được sử dụng.
Nếu gọi M là khối lượng giá trị thặng dư, ta có công thức
M = m’ x V
V = v x Số lượng công nhân
V: tư bản khả biến đại diện cho tổng giá trị sức lao động
v : tư bản khả biến đại diện cho giá trị một sức lao động
M: Phản ánh quy mô sự bóc lột
- Khối lượng giá trị thặng dư tùy thuộc vào 2 nhân tố: m’ và V. Điều đó có nghĩa là khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào thời gian lao động thặng dư, cường độ lao động của công nhân và số lượng công nhân mà nhà tư bản sử dụng.
Ví dụ: Công nhân ngày làm việc 8h thì tỷ suất giá trị thặng dư là 300%. Sau đó nhà tư bản kéo dài ngày làm việc đến 10h thì tỷ suất giá trị thặng dư thay dổi như thế nào nếu giá trị sức lao động không đổi (V không đổi) .
* Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao dộng, phần thời gian lao đọng thặng dư (t’), mà công nhân làm cho nhà tư bản, chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu (t).
- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu, bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, qua đó hạ thấp giá trị sức lao động và làm tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động và cường độ lao động không đổi.
So sánh GTTD tương đối với GTTD siêu ngạch
-> Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở chung là chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.