Introducing 

Prezi AI.

Your new presentation assistant.

Refine, enhance, and tailor your content, source relevant images, and edit visuals quicker than ever before.

Loading…
Transcript

Biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm

NHÓM II - K5M

Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm

1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm

Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam.

2. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm

Thứ nhất, áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phục vụ tốt cho công tác điều tra giải quyết được yêu cầu, mục tiêu đề ra của hoạt động tố tụng hình sự đạt hiệu quả cao.

Thứ hai, áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm là thể hiện việc đề cao, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Biện pháp đặt tiền để bảo đảm là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, là biện pháp mang tính chất cưỡng chế Nhà nước, thể hiện tính quyền uy, mềm dẻo trong phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng hình sự.

Thứ ba, áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm góp phần bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, đồng thời thể hiện sự mềm dẻo của các chính sách của Nhà nước trong trấn áp tội phạm Tước bỏ những điều kiện thuận lợi, không cho phép người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm, gây nguy hại cho xã hội.

Việc áp dụng đúng đắn biện pháp đặt tiền để bảo đảm thể hiện tính chất thời đại, mềm dẻo trong chính sách tố tụng và có ý nghĩa rất quan trọng

2. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm

Tránh việc bắt không đúng pháp luật sẽ gây ra hàng loạt những sai lầm trong hoạt động tố tụng hình sự tiếp theo

Thứ tư, áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm còn góp phần tăng cường pháp chế và củng cố pháp luật ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

II. Bình luận quy định của BLTTHS 2015 về biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm

Điều 2 thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định “Nguyên tắc của việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm” là:

Có ý kiến cho rằng cần căn cứ vào mức lương tối thiểu đã quy định tương ứng với từng loại tội phạm tại thời điểm áp dụng làm tiêu chí đánh giá tình trạng tài sản của bị can, bị cáo.

Thứ nhất, tuân thủ Hiến pháp, BLTTHS và các quy định pháp luật khác có liên quan. Xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN được quy định tại Điều 7 BLTTHS 2015.

Thứ hai, tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục, điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Đảm bảo việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hợp pháp, bảo đảm quyền, lợi ích cho bị can, bị cáo đang bị tạm giam và các chủ thể có liên quan.

Điều 3 của Thông tư 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC: “Tiền đặt để bảo đảm là Việt Nam đồng, thuộc sở hữu hợp pháp của bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”. Việc xác định số tiền dùng để đặt thuộc sở hữu hợp pháp của các chủ thể còn là một vấn đề khá khó khăn đối với các cơ quan có thẩm quyền.

Thứ ba, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải cân nhắc hiệu quả, tính khả thi của việc thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

Điều 122 BLTTHS 2015 đã bỏ đối tượng tài sản có giá trị để bảo đảm so với quy định tại điều 93 BLTTHS 2003.

Ba là căn cứ nhân thân của bị can, bị cáo.

Thứ tư, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu nộp NSNN số tiền đã đặt để bảo đảm theo đúng quy trình, có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng với Kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính trong Quân đội; bảo đảm quyền được trả lại tiền của bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ cam đoan.

Chưa có văn bản hướng dẫn nhân thân bị can, bị cáo như thế nào thì được áp dụng biện pháp này. Có ý kiến cho rằng bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm phải là người trước khi phạm tội có nhân thân tốt . Chưa có quy định cụ thể về nhân thân được căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm. Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS, khoản 2 Điều 2:

“Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.

Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.”

2. Căn cứ và điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

(1) Căn cứ áp dụng được quy định tại khoản 1 Điều 122 BLTTDS 2015.

Sự phối hợp giữa các chủ thể trong việc quản lý số tiền được dùng để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ của bị can, bị cáo cũng như quyền được nhận lại số tiền khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người đặt tiền để bảo đảm.

Một là, căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Điều 122 BLTTHS không quy định rõ biện pháp này được áp dụng đối với những loại tội phạm và trong những trường hợp phạm tội nào. Có thể áp dụng cho cả bốn loại tội phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự.

(2) Điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm:

Quan điểm => có thể áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và những trường hợp bị can, bị cáo có nhân thân xấu.

Thứ nhất, bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu, tố giác đồng phạm, có tình tiết giảm nhẹ (như tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại...);

Thứ hai, việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Thông tư liên tịch 17/2013/TTLT-BTP-BCA- BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn về việc đặt tiền để đảm bảo theo quy định tại Đ 93 của BLTTHS. Đến thông tư 06/2018/ TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC đã hủy bỏ quy định này.

Thứ ba, không thuộc các trường hợp không được áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Quy định về căn cứ để áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm tại khoản 1 Điều 122 BLTTDS 2015 BLTTDS 2015 không có gì thay đổi so với quy định tại khoản 1 điều 93 BLTTDS 2003.

1. Nguyên tắc chung khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Hai là căn cứ tình trạng tài sản của bị can, bị cáo.

Quy định về căn cứ để áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm tại khoản 1 Điều 122 BLTTDS 2015 BLTTDS 2015 không có gì thay đổi so với quy định tại khoản 1 điều 93 BLTTDS 2003.

Quan điểm khác => Chỉ được áp dụng khi căn cứ cho việc áp dụng biện pháp tạm giam không còn nữa hoặc là ngay từ ban đầu cơ quan tiến hành tố tụng không có căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam bị can, bị cáo.

Mức tiền đặt để bảo đảm được quy định tại Điều 4 thông tư liên tịch số 06/2018/ TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC. Nhưng không dưới:

Bên cạnh đó, việc thông tư 06/2018 sửa đổi điểm c và d khoản 1 điều 3 thông tư 17/2013:

“c) Có căn cứ xác định, sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử;

d) Việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự"

1. Nguyên tắc chung khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

PGS.TS.Hoàng Thị Minh Sơn (2012), không phải tất cả các bị can, bị cáo thuộc đối tượng bị tạm giam và có tiền đều có thể được áp dụng biện pháp này mà chỉ bị can, bị cáo thuộc đối tượng bị tạm giam và có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 122 BLTTHS thì mới có thể được áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

- Ba mươi triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

- Một trăm triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng;

- Hai trăm triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

- Ba trăm triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Thông tư 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC làm rõ một số tình tiết giảm nhẹ để có thể áp dụng biện pháp bảo đảm khi bị can, bị cáo có những tình tiết như: tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại...

Đảm quyền con người

Thông tư liên tịch 06/2018 thay thế thông tư liên tịch 17/2013/TTLT-BTP-BCA- BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn về việc đặt tiền để bảo đảm theo quy định tại điều 93 của bộ luật tố tụng hình sự phù hợp với pháp luật hơn.

Chuyển thành “việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm” là hoàn toàn hợp lý

Có thể quyết định mức tiền phải đặt để bảo đảm thấp hơn nhưng không dưới một phần hai (1/2) mức tương ứng quy định tại khoản 1 Điều này trong các trường hợp sau đây:

Các điều kiện được quy định ngắn gọn, dễ hiểu, dễ áp dụng chứ không phân chia thành các khoản nhỏ như thông tư liên tịch 17/2013.

Khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC đã chỉ ra các điều kiện để cơ quan có thẩm quyền căn cứ để đánh giá mức độ, tính chất nguy hiểm bảo gồm: phạm tội lần đầu, tố giác đồng phạm, có tình tiết giảm nhẹ (như tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại...);

Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC đã loại bỏ một số khoản của Điều 3 thông tư 17/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC như:

- Bị can, bị cáo là thương binh, bệnh binh, là người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân hoặc được tặng Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là con đẻ, con nuôi hợp pháp của liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, của gia đình được tặng bằng “Gia đình có công với nước”;

Vậy làm thế nào để xác định tình trạng tài sản của bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người thân thích của bị can, bị cáo đang bị tạm giam hoặc người đại diện của họ để đảm bảo họ có khả năng chi trả số tiền dùng để bảo đảm?

- Bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Cách quy định của thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC phù hợp với quy định của pháp luật hơn cách liệt kê các trường hợp loại trừ của thông tư cũ. Bên cạnh đó, việc loại bỏ điểm e: “Bị can, bị cáo là người nghiện ma tuý” là phù hợp với thực tiễn pháp luật, bởi hiện nay người sử dụng chất ma túy không còn được coi là tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự

“a) Bị can, bị cáo phạm một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;

b) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;

c) Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; phạm tội rất nghiêm trọng thuộc loại tội phạm về ma túy, tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản”.

- Những đối tượng này là những đối tượng đặc biệt bao gồm những cá nhân trực tiếp có công với đất nước, được hưởng chế độ do nhà nước quy định, hoặc thân nhân của những người có công với đất nước như con đẻ, con nuôi của liệt sĩ,…hoặc các đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý hay có khiếm khuyết nhất định về tâm thần, cơ thể.

Khoản 3 Điều 122 BLTTHS 2015

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;

- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp;

- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

=> BLTTHS 2015 quy định cụ thể về thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Thẩm quyền của từng cơ quan tiến hành tố tụng ở mỗi giai đoạn tố tụng hình sự.

Giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra có thẩm quyền trong việc quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp, nhằm kiểm sát việc cơ quan điều tra nhằm đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp.

Giai đoạn khác không cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Quy định rõ ràng, mở rộng đối tượng áp dụng, chủ thể tiến hành. Gồm có bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can bị cáo.

Trường hợp trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm nhưng khi chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát hoặc sau khi có cáo trạng truy tố, hồ sơ chuyển cho toà án thì viện kiểm sát và toà án có phải ra quyết định đặt tiền để bảo đảm mới hay vẫn tiếp tục sử dụng quyết định của cơ quan điều tra?

Có thể suy luận rằng nếu như chưa hết thời hạn điều tra, truy tố, xét xử thì quyết định vẫn đương nhiên có hiệu lực và không cần thiết ra quyết định mới.

3. Thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Về thời hạn áp dụng, khắc phục nhược điểm của Điều 93 BLTTHS 2003 chưa quy định về thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm, tại khoản 3 Điều 122 BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể hơn về thời hạn đặt tiền:

- Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại BLTTHS.

- Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

Đề nghị đặt tiền để bảo đảm

- Về chủ thể đề nghị bao gồm: Bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền đề nghị với cơ quan tiến hành tố tụng về việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

- Hình thức: đơn đề nghị bằng văn bản

- Chủ thể tiếp nhận: cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án

- Thủ tục: Đơn đề nghị của bị can, bị cáo, được gửi qua cơ sở giam giữ hoặc gửi trực tiếp cho cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án. Đơn đề nghị của người thân thích, người đại diện của bị can, bị cáo được gửi trực tiếp đến cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án.

- Thời hạn: Trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ khi nhận được đơn đề nghị của bị can, bị cáo, cơ sở giam giữ có trách nhiệm chuyển đến cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án.

Đồng thời, Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau:

Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Thứ hai, thông báo về việc cho đặt tiền để bảo đảm

Trường hợp nộp tiền tại Kho bạc nhà nước thì người được bị can, bị cáo ủy quyền, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mang theo Thông báo về việc cho đặt tiền để bảo đảm để Kho bạc Nhà nước kiểm tra và làm các thủ tục nộp tiền vào tài khoản tạm giữ của Cơ quan điều tra hoặc của Tòa án nhân dân nơi có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn đề nghị và các giấy tờ có liên quan, cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án có trách nhiệm xem xét, nếu thấy có đủ điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm theo thì ra Thông báo cho bị can, bị cáo, người thân thích hoặc người đại diện của bị can, bị cáo theo mẫu để làm thủ tục đặt tiền để bảo đảm.

Như vậy, việc nộp tiền được quy định rất chi tiết và cụ thể. Giúp cho người thực hiện việc đặt tiền có thể thực hiện theo đúng quy định. Cơ quan có thẩm quyền cũng dễ dàng hơn trong việc quản lý, không còn bị lúng túng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm như quy định của BLTTHS 2003.

Người nộp lập 3 liên Giấy nộp tiền vào tài khoản ( theo mẫu của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện kế toán nhà nước áp dụng cho Hệ thống thông tin quản lý Ngân sachs, Kho bạc).

Trường hợp thấy không đủ điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo thì phải thông báo bằng văn bản cho người đề nghị biết trong đó nêu rõ lý do.

Trường hợp nộp tiền tại cơ quan tài chính trong Quân đội thì cơ quan nhận tiền có trách nhiệm lập biên bản giao nhận tiền nộp, có chữ ký xác nhận của bên nộp tiền, bên nhận tiền

Thứ ba, thực hiện việc đặt tiền để bảo đảm

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về việc cho đặt tiền để bảo đảm, người được bị can, bị cáo ủy quyền, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất phải hoàn thành việc đặt tiền.

Trong trường hợp vì trở ngại khách quan hoặc lý do bất khả kháng mà không thể hoàn thành việc đặt tiền để bảo đảm đúng hạn thì thời hạn này được tính lại kể từ khi hết trở ngại khách quan hoặc lý do bất khả kháng không còn nữa.

Việc đặt tiền để bảo đảm được thực hiện như sau:

4. Thủ tục áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

(1) Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự:

02 ngày làm việc, Cơ quan điều tra đang tiến hành tố tụng đối với vụ án ra quyết định áp dụng

02 ngày làm việc,Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn

Viện kiểm sát phải quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn

(2) Trong giai đoạn truy tố, xét xử:

02 ngày, Viện kiểm sát => ra quyết định áp dụng ,Tòa án => ra quyết định áp dụng

Viện kiểm sát, Tòa án phải quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn

(3) Chuyển giao các quyết định

Quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, quyết định của Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phải được giao cho bị can, bị cáo, người được bị can, bị cáo ủy quyền, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, đồng thời, gửi cho cơ quan là chủ tài khoản tạm giữ, cơ sở đang giam giữ bị can, bị cáo.

(4) Thời hạn đặt tiền

Thời hạn đặt tiền được tính theo thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù được tính đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC đã có những quy định làm rõ được những nội dung cần thiết của thủ tục áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Thứ nhất, căn cứ hủy bỏ

Thứ hai, thủ tục

- Đối với trường hợp có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can; Bị can, bị cáo bị bắt tạm giam về tội đã phạm trước khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc tiếp tục phạm tội; Bị can, bị cáo đã chết nếu vụ án trong giai đoạn truy tố, xét xử thì VKS hoặc Tòa án ra quyết định hủy bỏ; nếu giai đoạn điều tra thì CQĐR đề nghị VKS hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

- Đối với trường hợp bị can, bị cáo đã chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm;

- Đối với các trường hợp bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn tạm giam, thì cùng với việc ra bản án, HĐXX ra quyết định hủy bỏ biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

- Khi có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;

- Bị can, bị cáo bị bắt tạm giam về tội đã phạm trước khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc tiếp tục phạm tội;

- Bị can, bị cáo chết;

- Bị can, bị cáo đã chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan;

- Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam;

- Bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan theo khoản 2 Điều 122 BLTTHS quy bao gồm: Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.)

- Đối với các trường hợp bị can, bị cáo vi phạm khoản 2 Điều 122 BLTTHS, nếu vụ án trong giai đoạn truy tố, xét xử thì VKS hoặc Tòa án ra quyết định hủy bỏ và ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam; nếu vụ án trong giai đoạn điều tra thì CQĐT đề nghị VKS ra hủy bỏ, đồng thời CQĐT ra quyết định truy nã bị can.

- Đối với trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn nếu vụ án trong giai đoạn truy tố, xét xử thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án ra quyết định hủy bỏ, đồng thời, yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, bị cáo; nếu vụ án trong giai đoạn điều tra thì Cơ quan điều tra đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ, đồng thời Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can.

Thứ ba, nội dung quyết định hủy bỏ :

Quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phải ghi rõ việc xử lý đối với tiền đã đặt để bảo đảm và phải được giao cho bị can, bị cáo, người được bị can, bị cáo ủy quyền, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, đồng thời, gửi cho cơ quan là chủ tài khoản tạm giữ và Kho bạc Nhà nước hoặc cơ quan tài chính trong Quân đội đang quản lý tiền đã được đặt để bảo đảm.

(2) Xử lý đối với tiền đặt để bảo đảm trong trường hợp hủy bỏ việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

các điểm a, c, d và đ khoản 1 Điều 10 của Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tam giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm.

(3) Thủ tục trả lại tiền đặt để bảo đảm

các điểm a, c, d và đ khoản 1 Điều 10 của Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tam giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm.

(4) Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước tiền đã đặt để bảo đảm

Thủ tục tịch thu, nộp ngân sách nhà nước tiền đã đặt để bảo đảm được thực hiện như việc tịch thu sung quỹ nhà nước đối với vật chứng vụ án theo quy định của pháp luật hiện hành.

5. Hủy bỏ việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Như vậy, có thể thấy rằng, BLTTHS 2015 và Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tam giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm, đã quy định chi tiết và đầy đủ về cả căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, thủ tục áp dụng hơn so với các quy định của BLTTHS cũ. Do đó, đã khắc phục được đa số những vướng mắc khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm trong TTHS. Các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng một cách thống nhất, chính xác biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm đối với các bị can, bị cáo có đủ điều kiện áp dụng.

III. Liên hệ thực tiễn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Ngoài ra, việc áp dụng đặt tiền để bảo đảm còn có một số khó khăn nhất định như vè mặt tâm lý nhận thức xã hội, thì còn có quan niệm cho rằng, vì đây là biện pháp nộp tiền để khỏi bị tạm giam nên việc áp dụng biện pháp này sẽ tạo điều kiện cho những người giàu, có điều kiện về kinh tế thoát khỏi bị giam giữ, còn người nghèo thì phải chấp nhận bị giam giữ; cũng có tâm lý còn e ngại rằng, việc áp dụng biện pháp này có thể bị lợi dụng để tiêu cực, hối lộ, “chạy chọt” để khỏi bị tạm giam. Còn về phía cơ quan tiến hành tố tụng thì nhìn chung còn có tâm lý chưa thực sự hào hứng, mạnh dạn áp dụng biện pháp này vì lo ngại rằng, việc cho bị can bị cáo tại ngoại có thể sẽ gây khó khăn, cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc bị can, bị cáo có thể bỏ trốn,…

Theo một lãnh đạo Viện KSND TP.HCM, từ khi Thông tư liên tịch 06/2018 có hiệu lực thi hành, đến nay Viện KSND TP.HCM cũng như cácVKSND quận/huyện tại TP.HCM chưa áp dụng biện pháp đặt tiền bảo đảm thay thế tạm giam cho vụ án nào. Lý giải, vị lãnh đạo này cho biết: “BLTTHS 2015, Thông tư 06/2018 quy định chi tiết, cụ thể từng trường hợp được áp dụng biện pháp đặt tiền bảo đảm, trường hợp nào không, số tiền tối đa bao nhiêu. Nhưng nhiều khi cán bộ tiến hành tố tụng làm tốt, làm đúng vẫn ngại điều tiếng. Vì từ trước đến nay, trong vụ án cứ liên quan đến tiền là nhạy cảm nên hiện cũng chưa thực hiện”.

1. Khó khăn khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Điển hình gần đây là vụ tai nạn nghiêm trọng ở khu vực Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM). Khuya 21.10.2018, bà Nguyễn Thị Nga (47 tuổi, ngụ Q.12, TP.HCM) sau khi nhậu đã điều khiển ô tô BMW chạy trên đường Điện Biên Phủ, hướng từ Q.1 về Q.Bình Thạnh với tốc độ cao. Đến ngã tư Hàng Xanh, xe của bà Nga tông vào nhiều xe máy đang dừng đèn đỏ và 1 taxi làm 1 người tử vong, nhiều người bị thương... Cơ quan CSĐT Công an Q.Bình Thạnh đã khởi tố vụ án “vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ”, khởi tố, bắt tạm giam bà Nga để phục vụ điều tra. Bị can cùng gia đình có đề nghị được đặt tiền để tại ngoại; cơ quan tiến hành tố tụng liên quan có xin ý kiến cấp trên, nhưng do vụ án đang được dư luận quan tâm, việc đặt tiền bảo đảm lại chưa thực hiện bao giờ nên các cơ quan tiến hành tố tụng... ngại áp dụng

Tháng 2.2019, cơ quan tiến hành tố tụng Q.Bình Thạnh thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú, đồng thời có lệnh cấm xuất cảnh đối với bà Nga. Lý do bị can được tại ngoại là “có nơi cư trú rõ ràng, được sự bảo lãnh của gia đình, có 7 người bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, đồng thời bà Nga tích cực bồi thường cho người bị hại nên không cần thiết phải tạm giam”

2. Biện pháp khắc phục những khó khăn khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

2. Biện pháp khắc phục những khó khăn khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

Thứ sáu, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chức năng trong quá trình tiến hành tố tụng.

Thứ bảy, xây dựng cơ chế ưu đãi về chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng.

Thứ tám, tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ chín, phát động phong trào quần chúng tham gia phòng chống tội phạm.

Để khắc phục tình trạng trên, chúng em xin đưa ra một số biện pháp khắc phục sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và các quy định về biện pháp đặt tiền bảo đảm trong tố tụng hình sự nói riêng và tạo môi trường thuận lợi để pháp luật đi vao cuộc sống.

Thứ hai, cần tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng làm thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của nhân dân đối với pháp luật.

Thứ ba, Tăng cường hơn nữa quyền tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào các dự án luật.

Thứ tư, cung cấp đầy đủ, có hệ thống thông tin pháp luật trong từng lĩnh vực để phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ năm, kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật.

Learn more about creating dynamic, engaging presentations with Prezi