Introducing 

Prezi AI.

Your new presentation assistant.

Refine, enhance, and tailor your content, source relevant images, and edit visuals quicker than ever before.

Loading…
Transcript

LƯỢC SỬ VÀ HIỆU LỰC CỦA ÁN LỆ

KHÁI

NIỆM

"ÁN LỆ"

  • các phán quyết (bản án, quyết định) của tòa án đối với 1 vụ kiện cụ thể đã xảy ra lúc trước mà đến bây giờ vẫn còn ràng buộc về mặt pháp lý

ANH

Trở thành 1 nguồn luật trọng yếu

Cơ sở của tài phán

Chỉ mang hiệu lực đối với chính vụ kiện đó

Thẩm phán chỉ bị ràng buộc bởi Hiến pháp và luật (Đ76.3 Hiến pháp)

NHẬT

TRÊN THỰC TẾ

Án lệ được đang đóng 1 vai trò quan trọng đối với việc xét xử

Án lệ thì bổ sung bộ phận khiếm khuyết của pháp luật

ÁN LỆ

trong quy định của pháp luật

Luật Tố tụng Hình sự hiện hành ban hành năm Chiêu Hòa 23

Điều 405 và Điều 410.2

Quy tắc tố tụng hình sự ban hành cùng năm

Điều 253

Quy chế tố tụng dân sự ban hành năm Chiêu Hòa 31 và

Luật tố tụng dân sự ban hành năm Bình Thành 8

Điểu 48

Là phán quyết của tòa án được đưa ra trong từng phiên tòa (bản án/quyết định) cụ thể

Có tính chất như là 1 tiền lệ khi xét xử 1 vụ việc cụ thể trong tương lai

Để tạo tiền lệ, phán quyết cần có tính khái quát để có thể áp dụng cho các trường hợp tương tự khác

ÁN LỆ

Thường được thể hiện trong tuyển tập của tòa án đưa ra

KẾT LUẬN

Án lệ có thể được định nghĩa là phán quyết (bản án, quyết định) đã được tuyên bởi toà án trước đó, và được coi như một tiền lệ làm sơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự

Thời kỳ

Mạc Phủ

MẠC PHỦ

Từ cuối thế kỷ 12, vào thời kì Mạc Phủ (từ năm 1192 đến năm 1867)

Xét xử

duy trì trật tự

Về vai trò của phán quyết trong xét xử và việc lập pháp

Về văn bản luật pháp

Thời kì Mạc Phủ Edo, tuyển tập án lệ của Tokugawa được thu thập và xuất bản năm 1877 bởi Bộ tư pháp Nhật Bản “Thời đại Tokugawa dân sự quán lệ chủng tập: Tài phán lệ Tokugawa”,

cột mốc quan trọng

-> Đánh dấu sự xuất hiện của án lệ tại NB

Năm 1232, Bộ luật đầu tiên ở Nhật Bản - “Ngự thành bại thức mục" ra đời

Thời kỳ Minh Trị

MINH

TRỊ

1

Tòa án thay đổi luật lệ phương Tây vừa mới tiếp nhận để phù hợp với các chuẩn mực đã có từ trước để điều chỉnh các mối quan hệ cộng đồng

2

Bắt đầu tạo ra 1 chế độ pháp lý mới để cải thiện hiệu quả

Thời Đại Chính và

thời kỳ đầu Chiêu Hòa

ĐẠI

CHÍNH

CHIÊU

HOÀ

Thời kỳ Minh Trị kết thúc, thời kỳ Đại Chính bắt đầu, hệ thống tư pháp vừa được thiết lập của Nhật Bản đối mặt với nhiều thử thách

Nỗ lực cải cách chính trị & kinh tế Nhật Bản đã thành công rực rỡ

Sự căng thẳng trong xã hội

Tranh chấp giữa tầng lớp có quyền lực với các giai cấp thấp hơn

Luật lệ được ban ra chủ yếu mang lại quyền lợi có giai cấp có quyền lực

Giới hạn những quyền mới của giai cấp có quyền lực

VÍ DỤ

  • Theo tài liệu về khái niệm “lợi dụng quyền” được áp dụng vào cuối thời Minh Trị, cụ thể trong vụ việc tranh chấp giữa Somoda và Sonoda, tòa án đã giới hạn quyền “tuyệt đối” của chủ gia trong việc quyết định nơi cư trú của thành viên trong gia.
  • Một ví dụ khác đáng chú ý là khái niệm “nội duyên”. Sự thừa nhận của người vợ “nội duyên” đã đảm bảo một vài quyền lợi pháp lý cho người phụ nữ từ đám cưới đến khi đăng ký kết hôn, với điều kiện là sự đồng thuận của chủ gia.

“Chủ nghĩa tích cực” sau chiến tranh

SAU

CHIẾN

TRANH

Sau chiến tranh thế giới thứ hai

  • Việc các thẩm phán làm luật nhận được nhiều sự quan tâm hơn.
  • Việc này được cho là là để phản ánh “chủ nghĩa tích cực” tiến bộ hơn so với“sự đồng thuận xã hội bảo thủ”.
  • Họ tiếp tục phát triển các quy định và nguyên tắc cơ bản về quản trị và quyền công dân.

HIẾN PHÁP

  • Một ví dụ nổi bật liên quan đến Điều 9:

Quyết định năm 1959 trong vụ Sakata kiện Nhật Bản, hay được gọi là vụ Sunakawa

Vai trò của các tòa án trong việc “tạo ra luật” vẫn không đổi

Tòa án cho rằng nhánh chính trị có thẩm quyền xác định phạm vi của các điều cấm của Điều 9 trừ khi hành động đang được xem xét rõ ràng vi phạm quy định.

NHẬN XÉT

Nhật Bản là một nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa, nhưng xuyên suốt dòng lịch sử thì án lệ đã luôn đóng góp một vai trò quan trọng.

NHẬN

XÉT

Với một bề dày lịch sử phát triển cùng hằng hà sa số án lệ đã góp phần khiến cho hoạt động xét xử ở Nhật Bản trở mềm dẻo, linh hoạt theo thời đại

HIỆU LỰC

Các bước để một án lệ có hiệu lực

Thụ lý – Điều tra vụ án

1

Toà án tối cao

Thẩm phán

Thụ lý

Điều tra quan

Kháng

cáo

Kháng

nghị

Điều tra vụ án

Phân bổ cho một Tiểu pháp đình

2

Thẩm lý

Diễn ra buổi bình nghị

Các luận điểm sẽ đảm bảo được đưa ra chỉnh sửa một cách đầy đủ

Việc chỉnh sửa luận điểm sẽ được thực hiện theo nguyên tắc đa số

Trong một số trường hợp thì vụ án sẽ được chuyển qua bên đại pháp đình để tiến hành bình nghị

3

Ra phán quyết cuối cùng

Thông báo phán quyết

Chính thức được thông qua

Thẩm phán sẽ đưa ra quyết định cuối cùng

thẩm phán kiểm tra lại nội dung của tài phán thư

Hiệu lực án lệ giữa các cấp tòa án

Hiệu lực án lệ giữa các cấp tòa án

Hiệu lực án lệ giữa các cấp tòa án là tính ràng buộc của nó đối với các cấp tòa khác nhau và giữa các tòa cùng cấp

Nguyên tắc các thẩm phán chỉ bị ràng buộc bởi Hiến pháp và luật

Điều 76 của Hiến pháp

Nhằm đảm bảo tính độc lập của cơ quan tư pháp hoặc tính độc lập của các thẩm phán

Quan điểm thống nhất pháp luật

  • Tòa án nên tham khảo các quyết định pháp lý của các tòa án khác khi có trường hợp tương tự
  • Khi các bản án có cùng hiệu lực được lặp lại, hoặc nếu các bản án của các Tòa án cấp trên đã có, thì các bản án này có thể được coi là ràng buộc đối với các bản án sau này như một án lệ

NHẬN XÉT

Không có quy định rõ sự ràng buộc hiệu lực án lệ của tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới, các tòa cấp dưới vẫn có thể cho ra một phán quyết khác với án lệ của tòa cấp trên

Tuy nhiên phán quyết đó có thể sẽ bị kháng cáo, kháng nghị

--> sự ràng buộc ngầm

Mức độ tính ràng buộc về hiệu lực cũng giảm dần theo cấp

Hiệu lực án lệ với các văn bản pháp luật khác

Hiệu lực án lệ với các văn bản pháp luật khác

Án lệ có phải là "luật"?

Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ

Hệ thống PL châu âu lục địa

Án lệ là cơ sở hình thành nguồn gốc pháp lý và án lệ chính là luật

tính hợp pháp của án lệ nói chung bị phủ nhận vì chỉ có luật do cơ quan lập pháp thiết lập mới là nguồn của luật

Tại Nhật Bản, án lệ không được xem là luật, không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng tòa cấp dưới phải tham khảo, nếu không nguy cơ bị tòa cấp trên sửa án rất cao

HIẾN PHÁP

Khi một bản án được ban hành nhưng sau đó bị kháng cáo với lý do là vi hiến thì bản án đó sẽ bị hủy.

--> Hiến pháp có hiệu lực cao hơn so với án lệ

ÁN LỆ

LUẬT

ÁN LỆ

Khi án lệ mâu thuẫn với luật thì luật được ưu tiên áp dụng

“luật hoá” án lệ là một án lệ được sử dụng lâu dài và hiệu quả hoàn toàn có thể trở thành một điều luật

VÍ DỤ

  • Việc đưa các nguyên tắc “ngay tình” và “lợi dụng quyền” vào thời hậu chiến
  • Gần đây nhất là Sửa đổi Bộ luật Tố tụng Dân sự về thẩm quyền xét xử quốc tế năm 2011

NHẬN XÉT

Việc việc hợp pháp hóa các quyết định trong án lệ thành quy định trong luật

-> Phản ánh mối quan tâm chung về việc lập pháp nhằm thay thế hoạt động tư pháp

-> Giảm thiểu đổi mới tư pháp

-> Tránh mâu thuẫn giữa các quy tắc được hệ thống hóa và các quy tắc do thẩm phán đưa ra

Hiệu lực

của

Hiệu lực của án lệ trên thưc tế

án lệ trên thực tế

Vai trò của án lệ ở Nhật Bản dường như được cố định chắc chắn.

Rất hiếm khi Tòa án tối cao bác bỏ các quyết định trước đó, ngay cả các quyết định của Đại Thẩm Viện trước chiến tranh

Trong hầu hết mọi lĩnh vực luật, các án lệ lâu đời vẫn tiếp tục được tuân theo

VÍ DỤ

Trong pháp luật hình sự, Tòa án Tối cao xét xử hai trường hợp theo một án lệ năm 1930 - cho rằng việc bị cáo bỏ qua việc dập tắt đám cháy do lỗi của anh ta với ý định để tòa nhà bị cháy đã cấu thành tội đốt phá

1932, Tòa án đã tuyên bố rằng một người con trai gây gổ với cha nuôi của mình đã phạm tội đốt phá tòa nhà có người ở vì không dập lửa do đốt củi mà người cha đã ném vào người anh ta

1938, Tòa án đã cho rằng việc không dập tắt được ngọn nến bị đổ gây ra hỏa hoạn thiêu rụi một ngôi nhà đã cấu thành tội đốt phá vì ngọn nến đã được thắp sáng bởi bị đơn

Không phải không có trường hợp án lệ bị mất đi hiệu lực

Một ví dụ điển hình về trường hợp hiếm hoi mà Tòa án đã bác bỏ án lệ là quyết định năm 1973 trong vụ Aizawa kiện Nhật Bản

  • Trên cơ sở bảo vệ bình đẳng tại các quy định của Điều 200 Bộ luật Hình sự, Toà án đã áp dụng một hình phạt nghiêm khắc hơn đối với tội giết con nối dõi tông đường so với bất kỳ vụ giết người nào khác
  • Đi ngược lại so với vụ án Grand Bench năm 1950 ở mức độ nghiêm trọng hơn của hình phạt đối với tội giết con cháu dòng dõi

NHẬN XÉT

Phản ánh các giá trị và thói quen đã ăn sâu vào các phương pháp tiếp cận bảo thủ phổ biến

Nhấn mạnh tính nhất quán và đồng thuận cùng sự tôn trọng với những đóng góp của những người tiền nhiệm, các phán quyết của quá khứ

TỔNG KẾT

thụ lý- điều tra vụ án

  • Để một án lệ có hiệu lực

thẩm lý

ra phán quyết cuối cùng

  • So với các cấp tòa án án lệ của tòa án cấp trên có tính ràng buộc đối với tòa án cấp dưới
  • So với các văn bản pháp lý khác

  • Hiệu lực của án lệ không bị mất đi theo thời gian
Learn more about creating dynamic, engaging presentations with Prezi