Introducing
Your new presentation assistant.
Refine, enhance, and tailor your content, source relevant images, and edit visuals quicker than ever before.
Trending searches
Thơ Nôm Đường luật là những bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo theo thể thể Đường luật (gồm cả những bài thơ theo thể Đường luật hoàn chỉnh và những theo thể Đường luật phá cách)
Thơ Nôm Đường luật ra đời từ thế kỉ XIII, cuối thời nhà Lý đầu thời nhà Trần Người đầu tiên đặt nền móng cho thơ Nôm là Hàn Thuyên nhưng mãi cho đến "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi ra đời vào nửa đầu thế kỉ ở XV và cả Hồng Đức quốc âm thi tập (nhiều tác giả) nửa cuối thế kỉ XV văn học chữ Nôm mới bắt đầu được khẳng định. Người có công lớn đầu tiên xây dựng một lối thơ riêng của Việt Nam – thơ Nôm Đường luật là Nguyễn Trãi. Lối thơ rất riêng ấy thể hiện ở các phương diện: xu hướng dân tộc hóa với những câu thất ngôn xen câu lục ngôn, cách ngắt nhịp 3/4 (thơ Đường luật ngắt nhịp 4/3), bởi việc sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ và cả hình tượng nghệ thuật đậm đà tính dân dã, dân tộc.
Có trước trong nền văn học thành văn ở nước ta là văn học viết bằng chữ Hán, thành dòng từ thế kỷ X, do tầng lớp trí thức phong kiến dùng chữ Hán để viết tác phẩm, và hầu hết được viết theo các thể loại văn học Trung Quốc. Văn học chữ Hán, trong đó có Đường luật Hán (ĐLH) có phạm vi đề tài rất rộng, từ những vấn đề chung của dân tộc đến vấn đề riêng của con người; vừa giàu tinh thần nhân đạo, vừa rất phong phú về chủ nghĩa yêu nước. Song vì viết bằng chữ Hán còn hạn chế khi phản ánh về con người và cuộc sống của đất nước Việt, không thể nào diễn tả hết tâm tư và hành động ý nghĩ sâu xa của chúng ta đó là một “khoảng trống” mà văn học chữ Hán không thể lấp đầy. Đó là những tiền đề và động lực quan trọng cho sự ra đời dòng văn học viết tiếng Việt (văn học viết bằng chữ Nôm) vào cuối thế kỷ XIII, trong đó có Thơ Nôm Đường luật
Xuất hiện sau Đường Luật Hán và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa, văn học Trung Quốc, chúng ta không phủ nhận sự ảnh hưởng và kế thừa thơ ca Trung Quốc, thơ Đường Luật Hán của Đường luật Nôm, mà trước hết ở hệ thống đề tài, chủ đề mang tính ước lệ, điển phạm như: Vịnh năm canh, bốn mùa, mười hai tháng theo cái lẽ tuần hoàn của triết lý cổ phương Đông trong “Kinh Dịch”; vịnh tứ thú (ngư tiều canh mục)nhằm bộc lộ cái thú thưởng ngoạn của bậc trí nhân quân tử và ngụ cho mỹ đức của cá nhân mình; vịnh đạo Cương thường theo giáo lý Khổng Mạnh “Quân tử chi chí ư đạo dã, bất thành chương bất đạt" - Tận tâm hạ) trong các quan hệ ứng xử và rèn luyện các phẩm chất nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; vịnh nhân vật lịch sử (nhất là các nhân vật Bắc sử) gắn với thái độ tôn sùng cổ nhân và mục đích giáo hóa
Nội dung cốt lõi của tranh ngư tiều canh mục là về 4 loại người — đại diện cho những nghề nghiệp chính trong xã hội xưa. 4 loại người đó là:
Ngư: Người đánh cá
Tiều: Người đốn củi
Canh: Người dệt vải
Mục: Trẻ chăn trâu
Như vậy tranh ngư tiều canh mục là tranh về cảnh sinh hoạt của làng quê Việt Nam. Là bức kí họa về đời sống, kinh tế, xã hội êm đềm, thơ mộng từ ngàn đời nay trên dải đất có hình chữ S này.
Ngoài ra, các nội dung khác của tư tưởng Nho giáo như đạo “trung dung”, “triết lý mệnh trời”, các quan niệm sống “an bần lạc đạo”, “dĩ hòa vi quý”... cũng được đề cập nhiều trong cảm hứng vịnh đề của các nhà Thơ Nôm Đường Luật.
Ở thế đừng tranh đấng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Đấy cậy đấy khôn, đây chẳng chịu
Đây rằng đây phải, đấy chẳng thua
Duật nọ mựa còn đua với bạng
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng “Nhân dĩ hòa vi quý”
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Bài 72)
- Do sự tương đồng về tư tưởng nói chung và tư tưởng văn học nói riêng ở người cầm bút. Sự tương đồng này có được hoặc do nguồn gốc bản địa hoặc do tiếp thu, kể cả do áp lực từ phía ngoại bang.
- Do sự ảnh hưởng trực tiếp của hệ tưởng Nho giáo trong quan niệm về thế giới, xã hội, văn học, con người, về lý tưởng, cái đẹp, cái hay...
- Do kiểu tác giả văn học trung đại quy định: “Ý thức công thức, khuôn sáo làm cho kiểu tác giả này rất khó sử dụng các chi tiết đời sống mới và các chi tiết nghệ thuật bất ngờ” ( ).
- Do tính quy phạm của thơ luật quy định: Tối kị lối tả chân, thiên về gợi và mang nghĩa hàm ẩn. Vì thế, thơ ấy thường sử dụng các biểu tượng nghệ thuật đã thành công thức, các thể tài đã định hình để biểu đạt nội dung, ý nghĩa.
Qua khảo sát và nghiên cứu, xu hướng dân chủ hóa, dân tộc hóa của hệ thống đề tài, chủ đề TNĐL được thể hiện chủ yếu trên các bình diện sau:
TNĐL đã nhân thêm và mở rộng các tiểu loại đề tài chủ đề khuôn sáo, ước lệ của Đường luật Hán nhằm hạn chế sự đơn điệu, lặp lại, tìm đến những cách biểu hiện riêng, thể hiện một cách nhìn tinh tế, và cách tả cũng tinh tế qua trí tưởng tượng dồi dào.
Chẳng hạn, trong Hồng Đức quốc âm thi tập - tập thơ được xem là tiêu biểu bậc nhất cho văn chương cung đình nửa sau thế kỷ XV - khi vịnh Mai, có: Mai thụ, Lão mai, Tảo mai, Thủy trung mai; về Hoa có: Giải ngữ hoa, Chỉ hoa, Hoa ảnh, Cúc hoa, Họa mai, Đăng hoa... Về Trăng, có: Trăng non, Bỡn trăng, Trời thu trăng sáng, Cây quế trong trăng, Hằng Nga Nguyệt, v,v...
Một ví dụ về bài Họa vần bài vịnh trăng 10:
Cày cạy nàng nào khéo hữu tình,
Mặt làu làu, vóc nhỏ thanh thanh.
Tròn tròn, méo méo in đòi thuở,
Xuống xuống, lên lên suốt mấy canh.
Tháng tháng liếc qua lầu đỏ đỏ,
Đêm đêm liền tới trướng xanh xanh,
Yêu yêu, dấu dấu đàn ai gảy,
Tính tính, tình tình tính tính tinh
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
Gồm:
Sự xuất hiện văn học chữ Nôm nói chung và TNĐL nói riêng là bước nhảy vọt của quá trình văn học, đồng thời thể hiện tinh thần tự lập, tự cường về mặt văn hóa của dân tộc Việt trong tương quan với nền văn hóa, văn học Hán. “Đối với một dân tộc, trên con đường tiến lên của lịch sử nói chung, của nền văn hóa nói riêng, bao giờ sự xuất hiện của văn tự cũng được coi như là một cái mốc có tầm quan trọng đáng kể và có tác dụng khá quyết định. Đặc biệt, nếu đó là một nền văn tự chuyên dùng để ghi tiếng nói dân tộc thì lại càng có ý nghĩa