Introducing
Your new presentation assistant.
Refine, enhance, and tailor your content, source relevant images, and edit visuals quicker than ever before.
Trending searches
Thành viên
TÓM TẮT BẢN ÁN
1: Trần Thị Nhung
2: Trần Thị Bích Huệ
3: Đỗ Thị Hương Lý
4: Nguyễn Thị Ánh Nguyệt
Chủ thể:
Nguyên Đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần A.
Bị Đơn: Chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H
Chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H vay vốn kinh doanh tại Ngân hàng TMCP A–Chi nhánh B thông qua hợp đồng tín dụng
lãi suất quá hạn
Số tiền vay
+ 750.000.000 đồng
Mục đích vay:
+ Bổ sung vốn lưu động sản xuất kinh doanh
Ngày đến hạn là 04/09/2018.
Lãi suất trong hạn:
+ Lãi trong hạn từ ngày 04/10/2017 đến ngày 03/3/2018 với mức lãi suất 9%/năm là 27.924.658 đồng.
+ Từ ngày 04/3/2018 đến ngày 19/7/2019 với mức lãi suất 9,7% lãi trong hạn là 100.056.164 đồng
Lãi suất quá hạn
+ Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi trong hạn
+ Từ ngày 04/3/2018 đến ngày 19/7/2019 lãi quá hạn là 31.691.096 đồng
Tài sản thế chấp
+ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đứng tên chủ sử dụng ông Ngô Sỹ H và bà Nguyễn Thị B
=> đã được lập thành hợp đồng thế chấp
+Chị Nguyễn Thị B đã trả được số tiền lãi trong hạn là 32.309.589 đồng.
+ Đến hạn không trả nợ.
Do chị B và anh H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn, Ngân hàng đã tiến hành đòi nợ nhiều lần nhưng chị B không trả.
+ Yêu cầu trả số tiền nợ gốc là 750.000.000đ
+ Số tiền lãi tính đến ngày 19/7/2019, lãi trong hạn là 95.671.233 đồng, lãi quá hạn là 31.691.096 đồng. Tiền lãi được tiếp tục tính theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi chị B và anh H trả hết toàn bộ số tiền nợ.
+ Trường hợp chị B và anh H không trả được nợ đầy đủ, đề nghị phát mại tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
2.Buộc chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần A: số tiền nợ gốc là 750.000.000đ và số tiền lãi tính đến ngày 19/7/2019, lãi trong hạn là 95.671.233 đồng, lãi quá hạn là 31.691.096 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án, chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trường hợp bị đơn không trả nợ Ngân hàng TMCPA có quyền tự mình hoặc yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp không đủ trả nợ thì bị đơn phải trả tiếp phần còn thiếu đó cho đến khi trả xong toàn bộ số nợ.
Điều 93 BLTTDS năm 2015 quy định về chứng cứ trong vụ việc dân sự.
Điều 108. Đánh giá chứng cứ
“1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ”.
+ Hồ sơ có cơ sở xác định ngày 04/10/2017 Ngân hàng TMCPA và chị Nguyễn Thị B có ký kết hợp đồng tín dụng số 01/2017/7188344/HĐTD theo đó chị Nguyễn Thị B vay ngân hàng TMCP Đầu tư và phát Triển Việt Nam số tiền 750.000.000đ. Ngân hàng đã giải ngân vào ngày 04/10/2017.
+ Khi giao kết hợp đồng Ngân hàng và chị Nguyễn Thị B có đầy đủ năng lực pháp luật, các bên đã tuân thủ đầy đủ quy định tại Điều 117, 119 BLDS năm 2015 nên hai hợp đồng tín dụng là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ, các bên phải tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Về hợp đồng thế chấp đã ký kết. Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng TMCPA và chị Nguyễn Thi B, anh Ngô Sỹ H đã ký kết hợp đồng thế chấp số 01/2016/7188344/HĐBĐ ngày 18/11/2016. Được sửa đổi, bổ sung bằng Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2018/7188344/VBSĐ ngày 18/6/2018.Việc ký kết hợp đồng thế chấp thực hiện đúng quy định tại các Điều 317, 318 BLDS 2015 ( về thế chấp tài sản);
+ Nghị định số11/2012/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm ngày 22/02/2012 của Chính phủ. Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 18/11/2016. Vì vậy, hợp đồng thế chấp số 01/2016/7188344/HĐBĐ ngày 18/11/2016 có hiệu lực pháp luật.
+ Chị Nguyễn Thị B đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ được quy định tại Điều 7 hợp đồng tín dụng, Điều 4 và Điều 9 của Điều kiện và Điều khoản vay đính kèm theo hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng anh Ngô Sỹ H không trực tiếp ký hợp đồng tuy nhiên anh H đã ủy quyền cho chị Nguyễn Thị B ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản ủy quyền ngày 18/11/2016
+ Về việc yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm: Do chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng không đúng theo cam kết trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo quy định Hợp đồng thế chấp bất động sản mà các bên đã ký kết.
+Hợp đồng tín dụng là hợp pháp
+ Hợp đồng thế chấp số 01/2016/7188344/HĐBĐ ngày 18/11/2016 có hiệu lực pháp luật.
+ Ngân hàng khởi kiện yêu cầu anh Ngô Sỹ H và chị Nguyễn Thị B trả nợ là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.
+ Yêu cầu của ngân hàng buộc chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H trả nợ số tiền như trên là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.
+ Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 9 Hợp đồng thế chấp bất động sản mà các bên đã ký kết.
+ Về án phí Trả lại cho Ngân hàng số tiền 18.150.000đ theo biên lai thu số AA/2018/0000864 ngày 21/02/2019 tại Chi cục thi hành án huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Buộc chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H phải chịu 38.320.000đ đồng tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
+ Về quyền kháng cáo, trong thời gian hạn quy định của pháp luật thì các đương sự có quyền kháng cáo.
+ Bị đơn là chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H có nơi cư trú tại xóm C xã DT, huyện D tỉnh Nghệ An. Căn cứ vào các Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An.
+ vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 207 BLTTDS. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đối với bị đơn chị Nguyễn Thị B tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm nhưng chị B vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn chị Nguyễn Thị B và anh Ngô Sỹ H.