Introducing 

Prezi AI.

Your new presentation assistant.

Refine, enhance, and tailor your content, source relevant images, and edit visuals quicker than ever before.

Loading…
Transcript

Nhóm 2

Phân loại ngôn ngữ theo loại hình.

So sánh loại hình đơn lập của tiếng Việt với loại hình hòa kết/ khuất chiết của tiếng Anh.

Nguyễn Trần Thiên Nguyệt

Trần Ngọc Diệu

Lê Trần Na

Đoàn Đức Duy

Nguyễn Thị Thanh Tâm

Mai Thị Kiều Chinh

Phạm Trương Thảo Nguyên

Loại hình ngôn ngữ đơn lập

Khái niệm

Phân loại ngôn ngữ

theo loại hình

Là gì ?

Phân loại ngôn ngữ theo loại hình

là loại so sánh dựa trên đặc điểm loại hình của các ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ có thể xây dựng nên từ các dấu hiệu về ngữ âm,đặc biệt về từ pháp (phương thức cấu tạo và cách thức biến hóa của từ) và cú pháp.

Cơ sở

Cơ sở phân loại

Mục tiêu phân loại

dựa vào đặc điểm hình thức của ngôn ngữ : ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp để so sánh chung và xác lập nên loại hình ngôn ngữ.

+ Thứ nhất: phát hiện, tìm ra những đặc trưng riêng biệt cho từng loại hình ngôn ngữ.

+ Thứ hai: lựa chọn các đơn vị để miêu tả các đặc điểm loại hình.

+ Thứ ba: tìm hiểu những cách thức biểu hiện những quan hệ ngữ pháp của từ và câu (các phương thức ngữ pháp đặc trưng cho từng nhóm ngôn ngữ).

Loại hình ngôn ngữ đơn lập

Tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Lào, tiếng Thái,.. là các ngôn ngữ tiêu biểu của loại hình ngôn ngữ đơn lập.

Khái niệm

Khái niệm

Ở đây có hai cách hiểu:

Đơn lập về ngữ âm và đơn lập về ngữ pháp.

Đơn lập về ngữ âm giống như tính đơn tiết của từ hay hình vị. Đơn lập về ngữ pháp nói đến tính độc lập của từ hoạt động trong câu do đặc điểm cấu tạo từ không có sự phân chia thành căn tố và phụ tố.

Đặc điểm

Đặc điểm

Từ không biến đổi hình thái.

Mỗi từ chỉ có một hình thức ngữ âm duy nhất.

Hình thức của từ không chỉ ra mối quan hệ giữa các từ trong câu, không chỉ ra chức năng cú pháp của từ. Chính xuất phát từ đặc điểm này nên người ta gọi loại hình này là đơn lập.

Từ đứng trong câu cũng có nghĩa như từ đứng khi đứng biệt lập một mình.

Ví dụ :

Tôi(1) tặng anh ấy(1) một cuốn sách, anh ấy(2) cho tôi(2) một quyển vở.

+ Dùng hư từ để biểu hiện nghĩa ngữ pháp và quan hệ ngữ pháp.

Vd:

Nếu thêm hư từ “ đang” hoặc “ đã” vào trước từ "đọc" sẽ thay đổi nghĩa thời gian của hành động.

Tôi đang đọc sách # Tôi đã đọc sách.

+ Dùng trật tự từ để biểu hiện nghĩa ngữ pháp và quan hệ ngữ pháp.

Vd:

-Bạn chưa ngủ # Bạn ngủ chưa?

-“Bàn chân” khác “chân bàn”.

Hư từ và trật tự từ đóng vai trò làm rõ quan hệ ngữ pháp cũng như ý nghĩa ngữ pháp của từ, của câu.

Trong nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập (tiêu biểu là tiếng Việt và tiếng Hán) ranh giới hình vị trùng với ranh giới âm tiết, tạo ra đơn vị “tiếng”. Tiếng có thể đứng độc lập, hoạt động với tư cách là một đơn tiết (ngon, ngọt, nhà, cửa), có thể với tư cách là yếu tố tạo từ ( ngon ngọt, nhà cửa)

Loại hình

chắp dính

LOẠI HÌNH CHẮP DÍNH

Thuộc loại này có tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Thổ Nhĩ Kì, các tiếng Ugo-Phần Lan, tiếng Bantu, v.v

Đặc điểm

Đặc điểm

Có hình thái chủ yếu sử dụng sự chắp dính / kết tụ.

Các từ có thể chứa các hình thái khác nhau để xác định ý nghĩa của chúng, nhưng tất cả các hình thái này vẫn còn, trong mọi khía cạnh, không thay đổi sau khi kết hợp.

Sử dụng rộng rãi các phụ tố để cấu tạo từ và biểu thị những mối quan hệ khác nhau.

HÌnh vị & ngữ pháp

Hình vị tính độc lập rất cao và mối liên hệ giữa các hình vị không chặt chẽ. Chính tố có thể tồn tại, hoạt động độc lập khi không có phụ tố đi kèm. Chính tố hầu như không biến đổi hình thái. Một chính tố có thể kết hợp với nhiều phụ tố

Chính do mối liên hệ không chặt chẽ của các hình vị mà người ta gọi những ngôn ngữ này là ngôn ngữ "niêm kết" hay "chắp dính".

Mỗi phụ tố trong các ngôn ngữ chắp dính chỉ biểu thị một ý nghĩa ngữ pháp nhất định, ngược lại, mỗi ý nghĩa ngữ pháp chỉ được biểu thị bằng một phụ tố [quan hệ 1–1].

Các ngôn ngữ chắp dính có xu hướng có tỷ lệ gắn kết cao trên mỗi từ và rất thường xuyên, đặc biệt với rất ít động từ bất quy tắc.

trong tiếng Thổ Nhĩ Kì:

adam (người đàn ông)- adamlar (những người đàn ông)

kadin (người phụ nữ)- kadinlar (những người phụ nữ)

Tiếng Nhật có rất ít động từ bất quy tắc - chỉ có hai động từ bất quy tắc đáng kể và chỉ có khoảng một chục động từ khác chỉ có sự bất thường nhỏ; trong khi trong các ngôn ngữ Quechua, tất cả các động từ thông thường là có quy tắc.

tiếng Tacta:

kul "bàn tay" (cách I, số ít) kul-lar "những bàn tay" (-lar chỉ số nhiều) kul-da (-da chỉ các vị trí cách) kul-lar-da (-lar chỉ số nhiều, -da chỉ vị trí cách)

Ev - căn phòng – Ev-ler - những căn phòng – Ev-i - phòng của tôi – Ev-ler-i - những căn phòng của tôi – Ev-i-den - từ căn phòng của tôi ra – Ev-ler-i-den - từ những căn phòng của tôi ra

Do đó, từ có độ dài rất lớn.

Loại hình ngôn ngữ hòa kết

Loại hình ngôn ngữ hòa kết

Ngôn ngữ hòa kết chính là các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ấn Âu, Semit mà đại diện tiêu biểu là các ngôn ngữ được phần lớn dân số thế giới sử dụng như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Hindi,…

Phổ biến

1 trong những loại hình ngôn ngữ khá phổ biến trên thế giới.

Loại hình ngôn ngữ này chủ yếu phân bố ở khu vực Bắc Âu, Tây Âu, Đông Âu,Trung Đông, Nam Á,

Vì sao gọi là ngôn ngữ hòa kết ?

Vì sao gọi là ngôn ngữ hòa kết?

Trong tiếng anh, từ “careless” (bất cẩn/không cẩn thận) được cấu thành từ hai hình vị “care”(chăm sóc) và “less”.

“Care” (chăm sóc) biểu đạt cho một hành động, còn “less” mang tính từ loại mà cụ thể là tính từ vừa mang tính phủ định.

Vì vậy nếu tách hai hình vị này ra khỏi nhau thì ý nghĩa từ vựng lẫn ngữ pháp của từ lập tức bị thay đổi.

Ngôn ngữ hòa kết là ngôn ngữ mà trong đó các từ có thể được tạo thành từ một hình vị hoặc từ sự hợp nhất của nhiều hình vị, trong đó một dạng hình vị có thể truyền tải nhiều thông tin về ngữ pháp và ý nghĩa từ vựng lẫn ý nghĩa ngữ pháp đã được dụng hợp trong từ đó.

Đặc trưng

Đặc trưng

Từ biến đổi hình thái để diễn tả quan hệ ngữ pháp. Đặc biệt có sự biến đổi nguyên âm và phụ âm của hình vị.

Hình vị không trùng âm tiết: Số lượng âm tiết trong một từ không chỉ ra đâu là hình vị và đâu là không.

Ví dụ: Trong tiếng Anh, từ “albatross” (chim hải âu) là một từ có tới ba âm tiết là “al”, “ba” và ‘tross” nhưng chỉ có một hình vị, bởi lẽ hai âm tiết này chỉ là những đơn vị phát âm thuần túy và không hề có ý nghĩa về mặt ngữ nghĩa hay ngữ pháp.

- Biến đổi để diễn tả về số lượng.

Tiếng Anh: I brush my teeth (Tôi đánh răng). Từ “teeth” ở đây là dạng số nhiều của từ gốc “tooth”.

- Biến đổi thành tân ngữ.

Các đại từ “I, he, she, they” sẽ biến đổi thành “me, him, her, them” để đứng sau động từ.

Biến đổi để diễn tả về thì. Tiếng Tây Ban Nha: Me comí esa manzana. ( I ate this apple/ Tôi đã ăn quả táo đó). Từ “ comí” là dạng quá khứ của động từ gốc “comer”. Ở đây dùng để diễn tả một hành động đã được thực hiện và không con tiếp diễn ở hiện tại. Ý nghĩa ngữ pháp được diễn đạt ngay trong từ “comí”.

Ngôn ngữ hòa kết có phụ tố. Nếu thiếu phụ tố thì ý nghĩa ngữ pháp của từ bị thay đổi. Các từ được cấu tạo từ hai hay nhiều hình vị đều mang hai yếu tố: Một yếu tố mang ý nghĩa từ vựng, yếu tố còn lại mang ý nghĩa về ngữ pháp.

“Artist”(họa sĩ)- “art” mang ý nghĩa là hội họa hoặc nghệ thuật, còn “ist”- phụ tố lại biểu thị ý nghĩa ngữ pháp về con người.

Ngôn ngữ hòa kết mang trọng âm: Vị trí của trọng âm thường tùy thuộc vào ý nghĩa từ vựng hoặc ý nghĩa ngữ pháp của dạng thức từ.

Ý nghĩa từ vựng: Từ “record” trong tiếng Anh, nếu là danh từ thì trọng âm rơi vào âm tiết thứ nhất, còn nếu là động từ thì trọng âm rơi vào âm tiếng thứ hai.

Mỗi phụ tố thể mang đồng thời mang nhiều ý nghĩa và ngược lại cùng một phụ tố có thể diễn đạt bằng nhiều phụ tố khác nhau.

Để diễn tả ý nghĩa đối lập hay khi chuyển nghĩa sang tiếng Việt còn có nghĩa tương đương là “bất, không,…” thì tiếng Anh có các phụ tố như “ un, dis, in,…” Independent (độc lập, không bị ràng buộc hay lệ thuộc) Dependent (phụ thuộc, lệ thuộc)

Tùy thuộc vào vị trí của phụ tố mà ta chia phụ tố thành tiền tố và hậu tố.

a) Tiền tố: Là phần phụ tố được gắn trước từ gốc để làm biến đổi nghĩa của từ.

Ví dụ: Tiền tố “dis” như “dislike, disagree, disapproval,…” làm cho ý nghĩa của từ mang tính phủ định.

b) Hậu tố: Là phần phụ tố gắn vào phía sau từ gốc từ làm thay đổi nghĩa của từ, chức năng ngữ pháp. Hậu tố có khả năng cấu thành từ loại.

Vì vậy mà mọi người có thể dễ dàng xác định được từ loại của các ngôn ngữ hòa kết khi nhìn vài kết cấu của chúng.

Ví dụ: Những từ có hậu tố “ion, ness, ity,…” thường là danh từ, các từ có hậu tố “ive, less, ous, al,…” thường là tính từ.

chính tố рук- trong tiếng Nga luôn luôn phải có phụ tố đi kèm theo: рука, руке, рукам,…

Sự liên hệ chặt chẽ giữa các hình vị ở trong từ. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ ngay cả chính tố cũng không thể đứng một mình.

Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp được dung hợp trong từ nhưng không thể tách bạch được đối với một vài từ.

He plays football very well (anh ta chơi bóng đá rất giỏi). Từ “well” ở đây khó để tách bạch được phần nào mang ý nghĩa từ vựng và phần nào mang ý nghĩa ngữ pháp.

Loại hình ngôn ngữ đa tổng hợp

Loại hình ngôn ngữ đa tổng hợp

Các ngôn ngữ Ấn ở Nam Mĩ và đông nam Xibêri v.v… là các ngôn ngữ hỗn nhập.

Đặc điểm

ĐẶC ĐIỂM

Trong thí dụ trên, hình thái động từ chỉ chứa đựng tân ngữ là đại từ.

ở một số ngôn ngữ, hình thái động từ bao gồm cả danh từ. Trong trường hợp này, danh từ bị rút gọn.

Tiếng Louravetlan, từ t-y-k, aa-nmy-rkyn có nghĩa là "Tôi giết con thú chạy". Ở đây, nmy là gốc của động từ "giết"; rkyn là phụ tố chỉ thời hiện tại: t- là tiền tố chỉ ngôi thứ nhất số ít; -kaa là hình thức rút gọn của danh từ k, oran (g) y "con thú chạy"; và -y- là nguyên âm phát triển về mặt ngữ âm, liên hệ các phần ý nghĩa khác của từ.

một từ tương ứng với một câu trong các ngôn ngữ khác. Nghĩa là đối tượng hành động, trạng thái hành động không được thể hiện bằng các thành phần câu đặc biệt (tân ngữ, trạng ngữ, định ngữ v.v…) mà được thể hiện bằng các phụ tố khác nhau trong hình thái động từ. Đôi khi chủ ngữ cũng nằm trong vị ngữ động từ.

Chính do đặc điểm các bộ phận tương ứng với các thành phần câu khác nhau được chứa đựng trong một từ mà người ta gọi là các ngôn ngữ trên là "hỗn nhập" hay "đa tổng hợp".

Ví dụ: Trong tiếng Tschinuk ở Bắc Mĩ, tương ứng với câu "Tôi đã đến để cho cô cái này" là từ i-n-i-a-l-u-d-am

gốc của động từ "cho" đại diện bằng phụ âm -d-

tiền tố -i- (ở đầu) biểu hiện thời quá khứ -n- biểu hiện ngôi thứ nhất, số ít;

-i- thứ hai biểu hiện tân ngữ giới từ (cái này)

-a- biểu hiện tân ngữ giới từ (cô),

-l- cho biết tân ngữ giới từ trên (cô) là gián tiếp

-u- chỉ ra rằng hành động xảy ra từ người nói )

-am cuối cùng biểu hiện khái niệm về sự chuyển động có mục đích

Đặc điểm

Trong các ngôn ngữ hỗn nhập, bên cạnh các hình thái hỗn nhập còn có cả các hình thái độc lập. Cùng một mối quan hệ có thể vừa được diễn đạt bằng một hình thái động từ trọn vẹn (hỗn nhập) vừa được diễn đạt bằng những thành phần câu độc lập. Chính vì vậy những ý kiến cho rằng trong các ngôn ngữ hỗn nhập không có các từ tách rời mà chỉ có từ-câu là không đúng.

Một số nhà ngôn ngữ học cho rằng: “Việc tách ra các ngôn ngữ hỗn nhập là dựa vào những đặc điểm về cú pháp, nên phải đặt nó dưới sự phân chia theo nguyên tắc cú pháp cùng với các ngôn ngữ phân tích và tổng hợp”.

Tuy nhiên, về mặt hình thái học, các ngôn ngữ hỗn nhập cũng thể hiện những cấu trúc hình thái riêng. Ở các ngôn ngữ này, các hình vị liên kết với nhau theo nguyên tắc dính. Nhưng trong các ngôn ngữ hỗn nhập có cả hiện tượng chuyển dạng nội bộ nữa.

Do đó, xét về mặt cấu trúc của các hình vị và mối liên hệ của chúng thì các ngôn ngữ hỗn nhập vừa có những đặc điểm của các ngôn ngữ chắp dính vừa có đặc điểm của các ngôn ngữ chuyển dạng.

So sánh

So sánh

Tiếng anh :1 ý nghĩa ngữ pháp có thể được biểu hiện bằng nhiều phụ tố và ngược lại .

Hòa kết được chia 2 nhóm hòa kết phân tích và hòa kết tổng hợp

Tiếng Việt: hình thái cấu tạo từ bằng phụ tố gần như không có,tồn tại 1 đơn vị đặc biệt gọi là hình tiết

Tiếng Anh - Tiếng Việt

Tiếng anh (hòa kết )

trong hoạt động ngôn ngữ từ có biến đổi hình thái( nghĩa là từ nọ đòi hỏi từ kia hợp dạng, ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp thể hiện ngay trong bản thân từ)

ví dụ i me , he him , work worked see saw

Tiếng Việt (đơn lập )

hoạt động ngôn ngữ không biến đổi hình thái (không đòi hỏi hợp dạng )

So sánh

Tiếng anh

tiếng việt

Sự đối lập căn tố - phụ tố trong các ngôn ngữ hòa kết là rất rõ ràng nhưng chúng dc kết hợp với nhau rất chặt chẽ ( căn tố k thể đứng một mình mà chỉ hoạt động đc khi đi kèm phụ tố mang ý nghĩa ngữ pháp nhất định )

quan hệ ngữ pháp , ý nghĩa ngữ pháp dc biểu thị chủ yếu bằng hư từ và trật tự từ

Learn more about creating dynamic, engaging presentations with Prezi