Introducing 

Prezi AI.

Your new presentation assistant.

Refine, enhance, and tailor your content, source relevant images, and edit visuals quicker than ever before.

Loading…
Transcript

NHÓM 2 K5M

Tình huống dân sự số 1

1. Các khái niệm

a. Bất động sản:

Theo khoản 1 Điều 107 BLDS 2015 quy định:

CƠ SỞ LÝ LUẬN

“Bất động sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản khác theo quy định của pháp luật”

Vậy, có thể hiểu bất động sản là những vật không di chuyển, dịch chuyển được.

b. Bất động sản liền kề:

- Các bất động sản phân lập với nhau thông qua ranh giới.

- Tuy nhiên không phải giữa tất cả bất động sản đều tồn tại ranh giới, mà chỉ có những bất động sản có bản chất không di dời được mới có ranh giới.

- Tuy nhiên Bộ luật dân sự năm 2015 không có quy định về khái niệm bất động sản liền kề, vậy bất động sản liền kề có thể hiểu là bất động sản có sự tiếp giáp nhau về ranh giới giữa các bất động sản.

- Do nhiều yếu tố tác động trong quá trình hình thành và tồn tại nên các bất động sản có sự tiếp giáp lẫn nhau.

- Hai bất động sản liền kề theo đúng nghĩa pháp lý để áp dụng quyền đối với bất động sản liền kề khi và chỉ khi chúng thuộc các chủ sở hữu khác nhau và có chung một ranh giới.

2.1 Khái niệm về quyền đối với bất động sản liền kề:

2. Nội dung quyền với bất động sản liền kề

Quyền đối với bất động sản liền kề nằm trong nhóm quyền của một chủ thể đối với tài sản của người khác. Bộ luật dân sự năm 2015 ra đời đã ghi nhận cụ thể về nội hàm của quyền này “Quyền với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác ( gọi là bất động sản hưởng quyền). (Điều 245)

2.2 Nguyên tắc thực hiện quyền với bất động sản liền kề

Solution 1

Pháp luật ghi nhận sự tự do ý chí của các chủ thể liên quan trong việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề. Theo quy định tại điều 248 Bộ luật dân sự 2015

a. Quyền với bất động sản liền kề được xác lập trong các trường hợp sau

Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập do địa thế tự nhiên là xuất phát từ điều kiện tự nhiên. Điều kiện địa lý cụ thể.

Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập theo quy định của pháp luật. Đó là các trường hợp xác lập theo quy định của pháp luật. Việc xác lập này được thể hiện trong các quyền: quyền về cấp thoát nước qua bất động sản liền kề (Điều 252); quyền về tưới nước tiêu nước trong canh tác (Điều 253); quyền về lối đi qua (Điều 254); mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản khác (Điều 255).

Quyền đối với bất động sản liền kề còn được xác lập theo thỏa thuận của các bên có bất động sản liền kề hoặc được xác lập theo di chúc của người để lại tài sản.

2.3 Căn cứ xác lập và chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề

b. Chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề

- Các trường hợp chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề quy định tại Điều 256 BLDS 2015

Solution 3

- Dù quyền đối với bất động sản liền kề được phát sinh theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật thì các bên trong quan hệ về quyền này đều có thể thỏa thuận chấm dứt quan hệ đó. Đồng thời, với việc chấm dứt thì các bên phải giải quyết các hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đó gây ra.

3. Nội dung quyền hưởng dụng

Quyền hưởng dụng (Điều 257 BLDS 2015) :

- Là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời gian nhất định

- Căn cứ xác lập và Hiệu lực quyền hưởng dụng tại Điều 258 và Điều 259 BLDS 2015

Điều 258. Căn cứ xác lập quyền hưởng dụng

Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc.

Do nhiều yếu tố tác động trong quá trình hình thành và tồn tại nên các bất động sản có sự tiếp giáp lẫn nhau. Hai bất động sản liền kề theo đúg nghĩa pháp lý để áp dụng quyền đối với bất động sản liền kề khi và chỉ khi chúng thuộc các chủ sở hữu khác nhau và có chung một ranh giới.

Điều 259. Hiệu lực của quyền hưởng dụng

Quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.

Quyền và nghĩa vụ của người hưởng dụng: Điều 261, 262 BLDS 2015

1. Tự mình hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng.

2. Yêu cầu chủ sở hữu tài sản thực hiện nghĩa vụ sửa chữa đối với tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 263 của Bộ luật này; trường hợp thực hiện nghĩa vụ thay cho chủ sở hữu tài sản thì có quyền yêu cầu chủ sở hữu tài sản hoàn trả chi phí.

3. Cho thuê quyền hưởng dụng đối với tài sản.

quyền của người hưởng dụng:

Nghĩa vụ của người hưởng dụng:

1. Tiếp nhận tài sản theo hiện trạng và thực hiện đăng ký nếu luật có quy định.

2. Khai thác tài sản phù hợp với công dụng, mục đích sử dụng của tài sản.

3. Giữ gìn, bảo quản tài sản như tài sản của mình.

4. Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để bảo đảm cho việc sử dụng bình thường; khôi phục tình trạng của tài sản và khắc phục các hậu quả xấu đối với tài sản do việc không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập quán về bảo quản tài sản.

5. Hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu khi hết thời hạn hưởng dụng.

Nghĩa vụ của người hưởng dụng:

Căn cứ chấm dứt quyền hưởng dụng: Điều 265 BLDS 2015

Quyền hưởng dụng chấm dứt trong trường hợp sau đây:

1. Thời hạn của quyền hưởng dụng đã hết;

2. Theo thỏa thuận của các bên;

3. Người hưởng dụng trở thành chủ sở hữu tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng;

4. Người hưởng dụng từ bỏ hoặc không thực hiện quyền hưởng dụng trong thời hạn do luật quy định;

5. Tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng không còn;

6. Theo quyết định của Tòa án;

7. Căn cứ khác theo quy định của luật.

TÌNH HUỐNG

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1970. Bị đơn: Ông Trần Văn S, sinh năm 1965.

Năm 2008, bà T mua miếng đất gần nhà ông S ( xã Bình Đức, huyện Châu Thành, Tiền Giang) để mở nhà máy xay xát lúa gạo xuất khẩu. Trước đó, ông S có chừa lối đi với chiều ngang gần 2m cho người hàng xóm ( tức người đã bán đất cho bà T) sử dụng.

Title

Trong thời gian hoạt động, doanh nghiệp bà T thường xuyên để xe tải gây ồn, bụi… làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình ông S. Ngoài ra, ông S cho biết bà T còn có một lối đi khác với chiều ngang hơn 15m để đi ra đường lớn. Do đó, ông S không muốn bà T sử dụng lối đi cũ. Ngược lại bà T muốn ông S mở rộng lối đi cũ thành 4m để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của gia đình bà. Sau đó, bà đã làm đơn khởi kiện yêu cầu tòa án nhân dân giải quyết.

Title

Năm 2010. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tiến hành xét xử sơ thẩm. Tại bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã bác đơn kiện của bà T, với lý do: Doanh nghiệp bà T không bị các bất động sản liền kề vây bọc , trong khi bà còn lối đi khác rất thuận tiện cho việc đi lại, kinh doanh với chiều ngang hơn 15m đúng như ông S đã nêu. Tuy nhiên tòa sơ thẩm cũng yêu cầu ông S phải giữ nguyên lối đi cũ như trước đây.

Bà T không đồng tình với tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và kháng cáo với lý do cần có lối đi chiều ngang rộng 4m để xe tải dễ ra vào.

Title

Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã yêu cầu ông S bán cho bà T 16m2 đất (chiều rộng 2m, chiều dài 8m) với giá 40 triệu đồng. Tòa án nhân dân phúc thẩm cho rằng: Lối đi sẵn có của bà T không đủ để nhà máy hoạt động xuất khẩu gạo. Do đó, theo chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan chức năng phải kiểm tra, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, trong đó có doanh nghiệp của bà T.

Yêu cầu đối với nhóm:

Giả sử vụ án trên được giải quyết vào thời điểm BLDS năm 2015 đã có hiệu lực. Các em hãy:

1. Xác định đối tượng tranh chấp của vụ kiện trên?

2. Nhận xét phán quyết của tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và phán quyết của tòa án nhân dân cấp phúc thẩm? Nêu rõ căn cứ pháp lý?

3. Quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm theo quy định của Bộ luật dân sự 2015?

1. Vấn đề 1: Xác định đối tượng tranh chấp của vụ kiện trên?

Giải quyết tình huống

Nội dung tranh chấp: mở rộng lối đi qua giữa 2 bất động sản liền kề của ông S và bà T.

Theo Khoản 1 Điều 254 BLDS 2015, Quyền về lối đi

Theo Điều 246 BLDS 2015 quy định: “Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập do địa thế tự nhiên, theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc”.

Vì vậy trong tình huống này ta sẽ xét hai trường hợp như sau:

TH1: Khi bà T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ chủ cũ của mảnh đất, chưa có lối đi 15m.

Do vị trí tự nhiên nên bất động sản của chủ sỡ hữu cũ bị vây bọc dẫn tới không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng nên phải mở lối đi thông qua bất động sản liền kề của ông S. Do đó, ông S đã mở lối đi rộng 2m cho người chủ sở hữu cũ. Nhưng sau đó, trong quá trình sử dụng của bà T xuất hiện lối đi 15m.

Ông S là người sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền đã mở lối đi 2m phù hợp với thỏa thuận của người hàng xóm cũ. Bà T là người được chuyển giao quyền sử dụng bất động sản hưởng quyền của người chủ cũ (Điều 247). Và theo đó, bà T trở thành người được hưởng quyền đối với bất động sản liền kề là lối đi 2m. Nên trong trường hợp này đối tượng tranh chấp là quyền đối với bất động sản liền kề.

TH2: Khi bà T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ chủ sở hữu mảnh đất trước đây, đã có lối đi 15m từ trước.

Lối đi 2m được giữ lại là vì lý do gì? Ở đây chúng ta lại chia ra 2 TH

Một là, việc giữ lại lối đi 2m là do ông S im lặng trong việc để người hàng xóm sử dụng lối đi 2m vì ông chưa phải sử dụng đến phần đất đó, tức là ông vẫn tiếp tục để người hàng xóm sử dụng lối đi và không có yêu cầu gì. Trường hợp này giống với TH1 ở trên.

Hai là, việc giữ lại lối đi 2m là do sự thỏa thuận của ông S và người hàng xóm, tức là lúc này hình thành quyền hưởng dụng (khai thác công dụng của lối đi 2m trên đất của ông S) quy định tại điều 257 BLDS 2015.

- khi ông hàng xóm chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà T, nếu vẫn đủ điều kiện trong thời hạn của quyền hưởng dụng quy định tại điều 260, thì bà T vẫn có quyền sử dụng lối đi 2m với tư cách là quyền hưởng dụng được chuyển giao từ ông chủ cũ (theo khoản 1 Điều 261).

=> Trong trường hợp này đối tượng tranh chấp là quyền hưởng dụng.

2. Vấn đề 2: Nhận xét phán quyết của tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và phán quyết của tòa án nhân dân cấp phúc thẩm? Nêu rõ căn cứ pháp lý?

Giải quyết tình huống

a. Nhận xét phán quyết của tòa án nhân dân cấp sơ thẩm.

Khi bà T mua miếng đất thì chưa có lối đi 15m. Trong quá trình bà T sử dụng mới hình thành 15m.

Trường hợp 1

Theo quy định tại Điều 256 BLDS 2015 về chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề:

Khi đường 15m được mở, ông S đã có căn cứ để chấm dứt sự hưởng quyền của BDS liền kề về lối đi của bà T. Do việc sử dụng bất động sản liền kề khi đó không còn phát sinh nhu cầu hường quyền về lối đi 2m nữa. Vì mảnh đất lúc này không bị các bất động sản liền kề vây bọc, và đã có lối đi khác rất thuận tiện cho việc đi lại, kinh doanh với chiều ngang hơn 15m.

Phán quyết của tòa án nhân dân huyện Châu Thành về việc giải quyết vấn đề trên là chưa hợp lý bởi vì:

Thứ nhất: Đúng ở chỗ tại thời điểm bà T sau khi mua đất thì hình thành lối đi 15m, nên tại thời điểm này bất động sản của bà S không bị các bất động sản khác vây bọc.. Việc bà T yêu cầu ông S mở rộng lối đi cũ 2m lên thành 4m để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình là không hợp pháp. Vì tại thời điểm này bất động sản của bà không bị vây bọc bởi các bất động sản khác. Vì vậy Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bác bỏ đơn kiện của bà T với lý do doanh nghiệp bà T không bị các bất động sản liền kề vậy bọc, trong khi đó bà còn một lối đi khác rộng 15m rất thuận tiện để đi lại, sản xuất và kinh doanh là đúng.

Thứ hai: Tuy nhiên việc tòa án yêu cầu ông S phải giữ nguyên lối đi cũ trước đây là sai bởi vì: Lối đi 2m đó được ông S chừa cho người hàng xóm (tức người đã bán đất cho bà T) khi chưa có lối đi 15m. Nhưng trong quá trình bà T mua đất đã làm xuất hiện thêm một lối đi khác rộng 15m nên lúc này quyền bất động sản liền kề sẽ chấm dứt. Đồng nghĩa với đó ông S có quyền lấy lại lối đi 2m hiện tại đang cho bà T sử dụng

Căn cứ vào Khoảng 2 Điều 256 luật dân sự 2015 quy định về việc chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề cũng có quy định cụ thể:

2. Việc sử dụng, khai thác bất động sản không còn phát sinh nhu cầu hưởng quyền:

Như vậy phán quyết của tòa án nhân dân huyện Châu Thành ở cấp sơ thẩm là chưa hợp lý chỉ mới khẳng định bà T không còn được hưởng quyền bất động sản liền kề vì bà còn một lối đi khác với chiều ngang 15m nhưng lại chưa giải quyết được vấn đề chấm dứt hưởng quyền bất động sản liền kề của bà T mà vẫn yêu cầu ông S giữ lại 2m. Trong trường hợp này ông S hoàn toàn có quyền chấm dứt hưởng quyền bất động sản liền kề của bà T bởi vì tại thời điểm này bất động sản của bà không còn bị vây bọc bởi xuất hiện thêm lối đi có chiều ngang 15m. Tuy nhiên lối đi 2m đó vẫn có thể giữ lại khi giữa hai người có sự thỏa thuận.

b. Nhận xét phán quyết của tòa án nhân dân cấp phúc thẩm.

Phán quyết của tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang tại phiên tòa xét xử phúc thẩm là sai bởi vì:

Thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề nếu trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thực hiện theo các nguyên tắc của Khoản 1, 2 Điều 248 BLDS 2015

- Thứ hai với việc tòa án cấp phúc thẩm cho rằng lối đi có sẵn của bà T không đủ để nhà máy hoạt động xuất khẩu gạo là vi phạm nguyên tắc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề. Lúc này đã xuất hiện lối đi 15m trên bất động sản của bà T nên sẽ không xuất hiện bất động sản liền kề mà bà T chỉ được hưởng quyền bất động sản liền kề trên 2m mà người chủ cũ để lại.

- Thứ nhất Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm yêu cầu ông S bán cho bà T 16m2 đất (chiều rộng 2m, chiều dài 8m) với giá 40 triệu đồng mà chưa được sự thỏa thuận, đồng tình của cả hai bên. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 254 luật dân sự 2015 thì vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, đảm bảo thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên.

Trong trường hợp này trước đó ông S có chừa lối đi ngang gần 2m cho người hàng xóm ( tức người đã bán đất cho bà T) với mục đích đi lại nhưng đến khi bà T sử dụng nó đã đưa các phương tiện như xe tải gây ồn ào, bụi...đã ảnh hưởng đến nhu cầu khai khác bất động sản chịu hưởng quyền tức là làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình ông S.

Mặc khác như ông S cho biết thì bà T còn một lối đi khác với chiều ngang hơn 15m để ra đường lớn. Như vậy bà T hoàn toàn có thể sử dụng lối đi này để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Để tránh tình trạng làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình ông T. Cùng với đó sử dụng lối đi 2m phục vụ nhu cầu đi lại sẽ hợp lý hơn. Vừa đảm bảo được mục đích cũng như nhu cầu sử dụng của cả hai bên..

Trường hợp 2: Khi bà T mua miếng đất thì trước khi mua đã có lối đi 15m và lối đi 2m vẫn còn được sử dụng.

Trường Hợp 2

Như đã phân tích ở yêu cầu 1, ta chia ra làm 2 TH nhỏ:

- Một là, ông S chưa thực hiện việc chấm dứt quyền với BDS liền kề. Khi đó sẽ giống TH1 ở trên đã phân tích.

- Hai là, việc giữ lại lối đi 2m là do sự thỏa thuận về quyền hưởng dụng với người hàng xóm cũ của ông (tức là chủ của miếng đất).

“Điều 261. Quyền của người hưởng dụng

1.Tự mình khai hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng.

….

3. Cho thuê quyền hưởng dụng đối với tài sản”

Lối đi 2m là kết quả của sự thỏa thuận giữa 2 người chủ sử dụng 2 BDS liền kề (chủ cũ và ông S). Khi đó bà T trở thành người thứ ba được hưởng quyền sử dụng lối đi 2m, thông qua giao dịch dân sự chuyển quyền sử dụng đất với ông S. Nếu bà T được người chủ cũ chuyển giao cả quyền hưởng dụng trên mảnh đất của ông S, đồng thời vẫn nằm trong thời hạn có hiệu lực của quyền hưởng dụng, thì bà T hoàn toàn có quyền tiếp tục sử dụng lối đi 2m đó (Điều 259, 260 BLDS 2015). Với điều kiện thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người hưởng dụng quy định tại điều 262.

a. Nhận xét phán quyết của TAND cấp sơ thẩm.

Theo đó, phán quyết tại phiên tòa xét xử sơ thẩm của TAND huyện Châu Thành là đúng.

Consultant 1

Vì doanh nghiệp của T không bị các bất động sản khác vây bọc, trong khi đó bà còn có lối đi khác rất thuận tiện cho việc đi lại, kinh doanh với chiều ngang hơn 15m đúng như ông S đã nêu. Ông S hoàn toàn không có nghĩa vụ phải mở lối đi rộng hơn cho bà T. Bà T chỉ được sử dụng lối đi 2m với mục đích đi lại giống như người chủ cũ đã chuyển giao quyền cũng như mảnh đất cho bà.

Bà không có căn cứ nào để yêu cầu ông S mở rộng lối đi. Như đã phân tích ở trên, lối đi 2m đó không còn là lối đi duy nhất của nhà bà T, tức bà T không có quyền đối với bất động sản liền kề trong trường hợp này (nếu lối đi đó là lối đi duy nhất thì việc bà T muốn mở lối đi 2m thành 4m để kinh doanh làm nhà máy sản xuất gạo là hợp lí theo quy định tại khoản 1 điều 254 BLDS 2015 và Tòa đã bác bỏ đơn kiện đó.

Trong trường hợp này, phía ông S yêu cầu bỏ lối đi 2m đó là không hợp lí khi mà quyền hưởng dụng do ông thỏa thuận với người chủ cũ chưa có căn cứ chấm dứt. Và điều kiện để bà T tiếp tục sử dụng lối đi 2m là phải thực hiện đẩy đủ nghĩa vụ của người hưởng dụng tại điều 262.

b. Nhận xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm.

Phán quyết tại phiên tòa xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử chưa hợp lí.

Consultant 2

Tính chưa hợp lí ở chỗ là nhà bà T đã có đường 15m thuận tiện cho việc ra đường lớn, thuận tiện cho việc xe tải ra vào để sản xuất gạo và hoạt động kinh doanh của nhà bà T thuận lợi rồi. Việc yêu cầu ông S phải bán lại cho bà T 16m2 (chiều rộng 2m, chiều dài 8m) với giá 40 triệu tức.

Liệu như vậy có quá vô lý và bất công đối với ông S?

Xét trong trường hợp: quyền đối với bất động sản liền kề vẫn còn nhưng nhà ông S đã xây dựng kiên cố, việc đập ra để làm lối đi 4m là đã làm cho tài sản bên chịu hưởng quyền bị xâm phạm. Đặc biệt, điều này đã vi phạm nguyên tắc thực hiện quyền bất động sản liền kề “không được lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền” (khoản 2 Điều 248 BLDS 2015). Pháp luật chỉ quy định bất động sản chịu hưởng quyền chỉ chịu những thiệt hại “hợp lí” nhằm phục vụ cho bất động sản hưởng quyền khai thác công dụng.

Hơn nữa, bây giờ mảnh đất của bà T đã có lối đi khác rộng hơn 15m nên đã không còn quyền đối với bất động sản liền kề. Vậy nên không bà T không có quyền yêu cầu mở rộng lối đi ra 4m, việc yêu cầu ông S phải bán đất của mình. Thậm chí, phần đất còn gắn liền với nhà và tài sản trên đất thuộc sở hữu ông S. Việc bán đất còn có thể dẫn tới nhiều hệ lụy (phải đập phá công trình trên đất, di dời tài sản cũng như thiệt hại đáng kể…).

Còn như trường hợp đang xét đến là quyền hưởng dụng. Ông S cũng hoàn toàn không có nghĩa vụ phải bán đất cho bà T nếu như không đồng ý. Không có căn cứ pháp luật nào ở đây, dù có “chính sách chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan chức năng phải kiểm tra, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, trong đó có doanh nghiệp của bà T” thì điều đó vẫn là bất hợp lý và bất công với ông S. Bà T thậm chí còn gây ảnh hưởng đến sinh hoạt nhà ông S, mặc dù không vi phạm nghĩa vụ tại điều 262 trực tiếp đến phần đất 2m. Bà T vẫn được sử dụng lối đi đó nếu quyền hưởng dụng mà bà được chuyển giao vẫn còn hiệu lực nhưng hoàn toàn không có căn cứ mở rộng lối đi.

Vậy phán quyết của TAND cấp phúc thẩm là chưa đúng, gây thiệt hại cho ông S.

3. Vấn đề 3: Quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm theo quy định của Bộ luật dân sự 2015?

Giải quyết tình huống

Để giải quyết tình huống thì trước hết phải cho hai bên tự thỏa thận nếu không thỏa thuận được thì nhóm chúng tôi giải quyết theo hai trường hợp sau:

Khi bà T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ chủ cũ của mảnh, chưa có lối đi 15m.

Trường hợp 1

Bác bỏ đơn kiện của bà T và hủy bỏ lối đi 2m. Bà T không có quyền yêu cầu mở rộng lối đi cũ thành 4m để phục vụ cho lợi ích kinh doanh của gia đình bà. Trước đó, ông S có chừa lối đi gần 2m cho người hàng xóm. Khi bà T mua mảnh đất của người hàng xóm đó bà T vẫn có quyền sử dụng lối đi 2m với điều kiện chưa hình thành lối đi 15m hoặc qua sự thỏa thuận với ông S. Lối đi 2m chính là kết quả của việc bà T được sử dụng quyền bất động sản liền kề. Quyền này được chuyển giao khi bất động sản được chuyển giao, quy định tại điều 247 BLDS 2015.

Nhưng trong quá trình bà T sử dụng đã hình thành nên lối đi 15m ra đường lớn, rất thuận tiện cho sự đi lại, kinh doanh. Căn cứ vào khoản 2 Điều 256 BLDS 2015 chấm dứt quyền với BĐS liền kề khi: “Việc sử dụng, khai thác bất động sản không còn làm phát sinh nhu cầu hưởng quyền”. Vì thế nên bà T sẽ mất đi quyền sử dụng đối với bất động sản liền kề. Và việc khai thác sử dụng bất động sản của bà không còn phát sinh nhu cầu hưởng quyền. Thêm vào đó, trong thời gian hoạt động, doanh nghiệp của bà T thường để xe tải gây ồn, bụi,.. làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình ông S. Dó đó, lối đi 2m mà ông S mở cho người hàng xóm được hủy bỏ.

Trường hợp 2

Khi bà T mua miếng đất thì trước khi mua đã có lối đi 15m và lối đi 2m vẫn còn được sử dụng.

Ở trường hợp này nhóm chúng tôi chia ra hai TH nhỏ

Một là, ông S chưa thực hiện việc chấm dứt quyền với BDS liền kề. Khi đó, sẽ giống như trường hợp 1 ở trên. Đơn kiện của bà T bị bác bỏ và hủy bỏ lối đi 2m

Hai là, việc giữ lại lối đi 2m là do sự thỏa thuận về quyền hưởng dụng với người hàng xóm cũ của ông (tức là chủ của miếng đất). Người chủ cũ và ông S đã thỏa thuận và hình thành nên lối đi 2m. Và khi bà T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và được người chủ cũ chuyển giao cả quyền hưởng dụng trên mảnh đất của ông S.

Bên cạnh đó căn cứ vào điều 259, 260 BLDS 2015 thời hạn có hiệu lực của quyền hưởng dụng vẫn còn, thì bà T hoàn toàn có quyền tiếp tục sử dụng lối đi 2m đó. Khi đó bà T trở thành người thứ ba được hưởng quyền sử dụng lối đi 2m, thông qua giao dịch dân sự chuyển quyền sử dụng đất với ông S.Với điều kiện thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người hưởng dụng quy định tại điều 262. Tuy nhiên, việc bà T yêu cầu ông S phải mở rộng lối đi cũ thành 4m là bất hợp lí do đó đơn kiện của bà T bị bác bỏ và lối đi 2m bà T vẫn tiếp tục được sử dụng.

Kiến nghị hoàn thiện

KIẾN NGHỊ HOAN THIỆN

Result 1

Nên quy định rõ thế nào là

“bất động sản bị vây bọc”;

“lối đi thuận tiện, hợp lý” và

“lối đi không đủ”; “thay đổi hiện trạng lối đi” để tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho Tòa án ra các phán quyết đúng đắn, chặt chẽ nhằm giải quyết tốt các vụ tranh chấp liên quan đến quyền về lối đi qua ngày một nhiều, một phổ biến trong các cộng đồng dân cư ở nước ta.

Result 2

Đối với người có quyền sử dụng bất động sản liền kề để thỏa mãn nhu cầu cần thiết, nhằm khai thác bất động sản cần phải thỏa thuận với người có quyền sử dụng đất là thỏa thuận pháp lý hợp pháp và hiệu quả nhất.

Phòng tránh các trường hợp lạm dụng quyền đối với các bất động sản liền kề.

Result 3

Do vậy, để khắc phục vấn đề hạn chế trên, cần phải có những văn bản pháp luật quy định rõ hơn về những vấn đề liên quan tới bất động sản liền kề, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan cũng như đường lối xử lý những tranh chấp để cho Tòa án dễ dàng giải quyết, giảm thiểu số lượng các vụ án trong tương lai.

Learn more about creating dynamic, engaging presentations with Prezi